Các phương pháp chẩn đoán c��n đau thắt ngực

Cơn đau thắt ngực thường là dấu hiệu cảnh báo sự xylynuocmiennam hiện diện của bệnh mạch vành với chừng độ đáng kể. Những bệnh nhân bị cơn đau thắt ngực cũng có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim. Nhồi máu cơ tim là tình trạng cơ tim bị tắt hơi bởi mạch vành bị ách tắc hoàn toàn bởi vì cục máu đông. Khi bị đau thắt ngực, tình trạng thiếu oxy của cơ tim là tạm thời và có thể phục hồi được. Tình trạng thiếu oxy của cơ tim bình phục và xulynuocmiennam.com/may-loc-nuoc-nano-cao-cap-cua-usa-my.html" title="máy lọc nước" target="_blank" rel="dofollow">máy lọc nước cơn đau ngực biến mất khi bệnh nhân dịp nghỉ ngơi. Ngước lại, những tổn xót thương của cơ trong nhồi máu cơ tim là vĩnh viễn. Cơ tắt nghỉ đi hóa thành mô sẹo khi lành lại. Tim bị sẹo sẽ chẳng thể bơm máu một cách hiệu quả như một quả tim bình thường được và có thể dẫn đến suy tim. Trên 25% bệnh nhân bị bệnh mạch vành với chừng độ đáng kể không có triệu chứng gì cả, ngay cả khi rõ ràng họ thiếu máu và oxy nuôi cơ tim. Những bệnh nhân này bị cơn đau thắt ngực "im lặng". Họ cũng có cùng nguy cơ bị nhồi máu cơ tim với những người bị các triệu chứng đau thắt ngực khác.

Cơn đau thắt ngực được chẩn đoán như thế nào?

Điện tâm đồ (ECG, EKG) là bản kết quả hoạt động điện học của cơ tim và có trạng thái phát hiện ra những cơ tim đang cần oxy. Điện tâm đồ đắt giá trị trong việc biểu hiện những thay đổi của cơ tim do thiếu oxy gây ra hoặc cơn nhồi máu cơ tim.

Nghiệm pháp cố gắng sức

Ở những bệnh nhân dịp có điện tâm đồ được đo lúc ở trạng thái ngơi nghỉ bình phẩm thường thì việc đo điện tâm đồ khi đang vận động huyễn hoặc đang đạp xe đạp có trạng thái là cách tầm rà soát hữu ích đối với bệnh mạch vành. Khi thực hiện nghiệm pháp cố kỉnh sức (còn được gọi là điện tâm đồ nỗ lực sức), ECG sẽ được đo liên tiếp trong khi bệnh nhân đang đi trên máy tập chạy bộ huyễn hoặc đạp xe đạp tại chỗ và gia tăng độ khó của bài tập dần dần. Sự xuất hiện của cơn đau ngực trong khi gắng sức có trạng thái tương ứng với những thay đổi trên ECG biểu lộ sự thiếu oxy của cơ tim. Khi bệnh nhân dịp ngơi nghỉ thì cơn đau thắt ngực cũng như những đổi thay trên ECG biểu lộ sự thiếu oxy của cơ tim cùng biến mất. Tính chính xác của điện tâm đồ cố gắng sức trong chẩn đoán bệnh lý mạch vành ở vào khoảng 60% đến 70%. Nếu điện tâm đồ gắng sức không cho thấy dấu hiệu của bệnh mạch vành, có trạng thái cho thallium theo đường tĩnh mạch trong lúc thực hành nghiệm pháp  gắng sức. Sự thêm vào của thallium này cho phép ghi hình hạt nhân dịp dòng máu đến những vùng khác nhau của cơ tim văn bằng một camera gắn ngoài. Sự giảm lưu lượng máu đến một khu vực nào đó của tim trong khi luyện tập và phẩm bình thường khi ngơi nghỉ cho biết có một đoạn mạch vành hẹp đáng kể ở vùng ứng của tim.

Siêu âm tim nỗ lực sức

Là phương pháp kết hợp siêu âm tim với nghiệm pháp cố kỉnh sức. Cũng giống như nghiệm pháp thallium cố kỉnh sức, siêu âm tim cố kỉnh sức chuẩn xác hơn điện tâm đồ cố kỉnh sức trong việc phát hiện ra bệnh mạch vành. Khi động mạch vành hẹp đáng kể, vùng cơ tim được động mạch này cung cấp máu sẽ không co bóp tốt như phần còn lại của cơ tim trong khi nỗ lực sức. Sự bất thường trong hoạt động co bóp của cơ tim có trạng thái được phát hiện văn bằng siêu âm tim. Siêu âm tim gắng sức và thallium cố sức đều có độ chính xác vào khoảng 80% đến 85% trong việc phát hiện bệnh mạch vành ở độ nặng tương đối. Khi bệnh nhân dịp chẳng thể thực hành nghiệm pháp nỗ lực sức vì chưng những vấn đề tâm thần mê hoặc cơ xương khớp, may loc nuoc nano danh thiếp bác sĩ có thể tiêm thuốc vào tĩnh mạch để tạo ra một tình trạng stress cho tim na ná như khi bệnh nhân đang cố sức. Khi đó hình ảnh của tim có trạng thái được ghi nhận lại bằng camera hạt nhân dịp hoặc văn bằng siêu thanh tim.

Thông tim

Thông tim cùng với chụp huyết quản (chụp mạch vành) là một kỹ thuật cho phép chụp lại hình ảnh X quang đãng của các động mạch vành. Nó là loại khảo trung thành phát hiện ra hẹp động mạch vành một cách chuẩn xác nhất. Các ống nhựa rỗng nhỏ (catheter) được luồn vào các lỗ mở của các động mạch vành dưới sự hướng dẫn của X quang. Thuốc nhuộm cản quang quẻ Iod sẽ được tiêm vào danh thiếp động mạch này khi hình ảnh x quang quẻ đang được ghi nhận lại. Thủ thuật chụp mạch vành cho phép bác sĩ có được hình ảnh về vị trí và độ nặng của bệnh động mạch vành. Thông tin này có thể quan yếu trong việc giúp thầy thuốc chọn lọc được những biện pháp điều động trị thích hợp.

Chụp mạch vành qua CT

Là thủ thuật tiêm thuốc nhuộm có chứa iod vào tĩnh mạch rồi sau đó chụp CT để ghi nhận lại hình ảnh của các động mạch vành. Tuy không phải dùng đến các catheter (do đó nó được gọi là một thủ thuật "không xâm lấn") nhưng nó vẫn chứa đựng một mệnh nguy cơ, bao gồm:
  • Bệnh nhân dịp có thể bị dị ứng với iod.
  • Bệnh nhân có công năng thận thất thường
  • Tiếp xúc với phóng xạ với mức độ tương đương mê hoặc nhiều hơn so với chụp mạch vành quy ước.
Tuy nhiên, đây vẫn thường là một khảo sát an toàn cho hầu hết mọi người. Nó là dụng cụ quan trọng để chẩn đoán bệnh mạch vành ở những bệnh nhân:
  • Có nguy cơ bị bệnh mạch vành cao (những người hút thuốc lá, những người có nguy cơ di truyền, có nồng độ cholesterol máu cao, tăng huyết áp, hoặc đái tháo đường).
  • Những người thực hành nghiệm pháp cố sức mê hoặc những nghiệm pháp khác cho kết quả nghi ngờ, huyễn hoặc
  • Những người có các triệu chứng gây nghi ngờ đến bệnh mạch vành.
Theo Y khoa – net
Previous
Next Post »
0 Komentar