Nhồi máu cơ tim thường có trạng thái xuất hiện đột ngột văn bằng cơn đau ngực khi gắng sức vào ban đêm mê hoặc lúc nghỉ ngơi. Khi cơ tim bị nhồi máu, bệnh nhân dịp cảm thấy đau ngực sau xương ức, nặng ngực, cảm giác như sắp chết, đau có trạng thái lan lên cằm, xulynuocmiennam ra tay trái, phía ngón nhẫn và ngón út bàn tay trái, đôi khi có trạng thái lan ra sau lưng hoặc xuống bụng. Cơn đau này kéo dài dai dẳng trên 30 phút, không đỡ khi dùng thuốc giãn vành trinitrin dạng xịt mê hoặc ngậm nitroglycerin dưới lưỡi. Ngoài cơn đau ngực, bệnh nhân dịp có trạng thái thể hiện khác như khó thở, vã mồ hôi, kích động,
may loc nuoc nano buồn nôn, nôn, nấc, sốt nhẹ có trạng thái xuất hiện sau triệu chứng đau ngực 24 giờ rồi lui dần… Nặng hơn có trạng thái tụt huyết áp, khó thở dữ dội, khạc bọt hồng – thể hiện của phù phổi cấp vì chưng suy tim trái cấp.Những trường học hợp nghi ngờ nhồi máu cơ tim cần phải vào cấp cứu tại cơ sở y tế gần nhất ngay ngay tức thì với sự trợ giúp của đội cấp cứu chuyên nghiệp, bệnh nhân dịp sẽ được làm điện tim đồ, men tim tại chỗ và sơ cứu: thở ôxy, giảm đau… rồi chuyển thẳng đến viện chuyên khoa. Tại phòng cấp cứu, bệnh nhân dịp nghi ngờ nhồi máu cơ tim sẽ được làm điện tim đồ để tử thi định vị trí và chừng độ nặng của nhồi máu cơ tim; bệnh nhân cũng được làm các xét nghiệm máu để khẳng định nhồi máu cơ tim như: troponin, đây là một dấu ấn đâm học đặc hiệu cho tổn xót thương cơ tim, có thể phát hiện sớm (troponin tăng sau nhồi máu cơ tim 2- 4 giờ, còn tiếp thô lỗ cao sau 5 – 9 ngày kể từ khi có triệu chứng); men CK, CK- MB tăng, ngoại giả men transaminase (GOT), men lactatdehygenase (LDH), số phận lượng bạch cầu máu tăng, máu lắng cũng có thể tăng.
Các thủ pháp cấp cứu càng nhanh càng tốt
Khi có những dấu hiệu bệnh, cần phải khẩn trương gọi cấp cứu để đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Trong lúc đợi chờ có trạng thái phải dùng ngay nitroglycerin truyền tĩnh mạch (trừ trường hợp huyết áp quá thấp hoặc nhồi máu cơ tim thất phải), sử dụng thuốc giảm đau dòng morphin, thuốc an thần giảm lo âu và thở ôxy, nếu có ngừng tim cần cấp cứu ngừng tuần hoàn trả theo quy trình. Vận chuyển bệnh nhân dịp phải được tiến hành văn bằng xe cứu thương chuyên dùng thở ôxy, truyền tĩnh mạch, làm điện tim trên xe và có thể bắt đầu điều trị.Tại bệnh viện: Mục đích đầu tiên của điều động trị là nhanh chóng tái thông mạch vành. Ngay từ khi vào cấp cứu hoặc khi nằm ở đơn vị điều động trị tích cực, bệnh nhân dịp nhồi máu cơ tim phải được làm như sau: nằm tại chỗ; thở ôxy qua mặt nạ,
máy lọc nước lèo heparin và aspirin để làm giảm độ quánh của máu; cho thuốc giảm đau (morphin); thuốc áp điệu lo âu. Ngoài ra còn có thể cho thêm danh thiếp thuốc: thuốc chẹn beta (atenolol, metoprolon), tiêm nitroglycerin tĩnh mạch. Nhanh chóng cho bệnh nhân dịp tiếp cận kỹ thuật tái tưới máu mạch vành, tùy vào trang thiết bị cơ sở chuyên khoa, có 2 kỹ thuật được dùng là: sử dụng thuốc tiêu sợi huyết để làm tan cục máu đông – thủ phạm làm tắc động mạch vành; chụp mạch vành dưới màn hình tăng sáng và nong văn bằng bóng rồi đặt giá đỡ (stent) nếu cần, là kỹ thuật được sử dụng nhiều hơn tại danh thiếp trung tâm tim mạch ở nước ta. Trong trường học hợp bệnh nhân dịp không thể can thiệp thì phải chuyển đến cơ sở giải phẫu tim mạch – lồng ngực để được phẫu thuật bắc cầu nối chủ – vành. Thông thường bệnh nhân nhồi máu cơ tim cần phải được tiếp cận càng nhanh càng tốt với danh thiếp thủ pháp tái tưới máu cho cơ tim tại cơ sở chuyên khoa. Tuy nhiên nhiều trường học hợp vào cấp cứu đã xuất hiện biến chứng ngay như rối loạn nhịp, ngừng tim… đòi hỏi phải xử trí kịp thời, nhanh chóng, đúng phác đồ mới có trạng thái giúp bệnh nhân dịp còn dịp được tiếp kiến cập với danh thiếp kỹ thuật tái thông suốt mạch vành.
Nhồi máu cơ tim có nhiều biến chứng, người ta chia làm 2 loại là biến chứng sớm và biến chứng muộn. Biến chứng sớm của nhồi máu cơ tim có trạng thái gặp: sốc không bởi tim hay sốc bởi vì cường phế vị, mặc dù không phải là nguyên nhân trực tiếp kiến vì tim nhưng có thể dẫn đến tử vong; sốc tim nếu vùng cơ tim bị nhồi máu rộng (40-50% ti tỉ cơ tim) gây suy tim toàn bộ (gặp 10 -15% danh thiếp trường học hợp); suy tim trái cấp thường gặp trong những ngày đầu của nhồi máu cơ tim bộc lộ khó thở, sung huyết phổi và phù phổi cấp; rối loạn dẫn truyền do hoại tử cơ tim dẫn đến rối loạn dòng ion phẩm bình thường tham dự vào co bóp của cơ tim, danh thiếp rối loạn dẫn truyền thường được gọi là lốc lịch nhĩ thất có trạng thái dẫn đến ngừng tim; các rối loạn nhịp tim gặp trong 90% danh thiếp trường học hợp nhồi máu cơ tim, ví dụ: rung thất đe dọa tử vong, tâm thất làm việc không hiệu quả dẫn đến ngừng tuần hoàn, điều trị độc nhất là sốc điện; nhịp nhanh thất có trạng thái dẫn đến suy tim cần phải làm giảm nhịp tim cấp cứu văn bằng thuốc chống loạn nhịp mê hoặc bằng sốc điện, rung nhĩ cũng cần được điều động trị; vỡ cơ tim hiếm (0,5-1%) nhưng rất nguy kịch đòi hỏi giải phẫu nhưng thành công cũng không cao; bệnh huyết ối – tắc mạch, tắc động mạch não, chi mê hoặc tắc động mạch phổi thường gặp bởi vì thế cần phải cho chống đông giảm độ nhớt của máu. ThS. BS. Hoàng Bùi Hải(Hồi sức cấp cứu A9 – Bệnh viện Bạch Mai)
0 Komentar